Chào mừng bạn đến với Blog cá nhân của Anthony Dương Nguyễn vie. Mến chúc bạn có những giây phút ý nghĩa!

SÁNG TÁC MỚI- CA KHÚC "VỀ BÊN MẸ TRÀ KIỆU"

NHẠC PHẨM MỚI YÊU THÍCH

BÀI VIẾT MỚI

Friday, December 29, 2017

SUY NIỆM TIN MỪNG (1 Cr 11, 3-15) Anthony Dương Văn Hạnh

TẠI SAO NGƯỜI NỮ NÊN ĐỂ TÓC DÀI? NGƯỜI NAM THÌ CẮT NGẮN?

(Antôn Dương Văn Hạnh)

Để giải đáp câu hỏi trên cũng là tiêu đề bài đăng hôm nay, tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô trích trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: (1 Cr 11, 3-15)

"Nhưng tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của người nam là Đức Kitô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Kitô là Thiên Chúa. Phàm người nam nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà che đầu, thì hạ nhục Đấng làm đầu mình. Phàm người nữ nào cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà lại để đầu trần, thì làm nhục kẻ làm đầu mình, vì người ấy như thể trọc đầu vậy.
Tại sao người nữ nên để tóc dài?
Hình minh hoạ: Internet
Nếu người nữ để đầu trần, thì cứ cắt tóc đi! Nhưng nếu cắt tóc hay trọc đầu là một điều xấu hổ đối với người nữ, thì hãy che đầu lại!
Người nam không được che đầu, bởi vì là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa; còn người nữ là vinh quang của người nam.Thật vậy, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. Cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam. Bởi thế, người nữ phải mang trên đầu một dấu hiệu phục tùng, vì có các thiên thần.Tuy nhiên, trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. Thật thế, như người nữ tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có. Anh em hãy tự xét xem: người nữ không che đầu mà cầu nguyện với Thiên Chúa thì có xứng hợp không? Chính thiên nhiên lại không dạy anh em rằng người nam mà để tóc dài là điều ô nhục. Còn người nữ mà để tóc dài thì lại là vinh dự cho họ đó sao? Là vì Thiên Chúa ban cho người nữ mái tóc làm khăn che đầu”.
Như vậy, người nữ nên để tóc dài để làm mũ che đầu. Đó là cách để tôn vinh người nam-kẻ là thủ lãnh của người nữ. Còn người nam hãy cắt tóc ngắn, để làm vinh danh Thiên Chúa-Đấng là chủ của họ.

Thursday, December 28, 2017

Hêrôđê trong thời đại mới (Anthony Dương Văn Hạnh)
HÊRÔĐÊ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Anthony Dương Văn Hạnh, SDD Postulant

Nhân ngày lễ Kính các thánh Anh Hài 28.12 trong tuần Bát nhật Giáng sinh, tôi có một vài cái nhìn khi Thánh Mát-thêu trình thuật  trong Tin mừng của mình (Mt 2, 13-18)

Cách đây hơn 2000 năm về trước vào thời của Đức Giêsu được sinh ra tại Bê-lem; có một vị vua tên là Hêrôđê khi nghe tin trẻ Giêsu chào đời  thì bàng hoàng lo lắng vì sợ khi Giêsu lớn lên sẽ dành ngôi vua, và cướp mất vị trí ngai vàng của mình, bèn sai lính đi giết hại tất cả các trẻ nhỏ từ hai tuổi trở xuống, không bỏ sót một ai. Đến độ “Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa” (Mt 2, 18).

Trước hết, sự hồ đồ ích kỉ của  vua Hêrôđê. Đó là một hành động không suy nghĩ; lo lắng đến mất khôn. Giá như nếu muốn giết Giêsu thì chờ thêm chút nữa, sai người đi điều tra thì cuối cùng cũng tìm ra thôi. Cớ gì phải giết hại nhiều trẻ vô tội như vậy.
Thứ đến, ngày nay có nhiều Hêrôđê còn nguy hiểm và độc ác hơn Hêrôđê trước đây, thể hiện qua:
          Những lời nói làm tổn hại danh dự, nhân phẩm của anh chị em xung quanh là đang giết hại tinh thần của người ta.
          Những người  mẹ trẻ phá thai là đang giết  hại mầm sống mới. Phá thai diễn ra ngay trong giới học sinh cấp 2, cấp 3, sinh viên, các gia đình trẻ. Tệ hại và nặng nhất vẫn là giới sinh viên. Họ chỉ muốn cho “sướng đời” rồi thoái thác trách nhiệm,  không chịu đón nhận hoa quả của tình yêu họ đã trao ban cho nhau qua hành vi ân ái.
          Những người mẹ sợ đau, không muốn sinh con nên chọn phương pháp mổ, hoặc thuê mướn người khác sinh. Như vậy đang làm cho con cái không được sinh ra tự nhiên, làm cho thân thể chúng yếu ớt. Đó cũng là hành động đi ngược lại tự nhiên, hủy hoại mầm sống.
          Những người mẹ sợ nhan sắc mình xấu đi, sợ cặp nhũ hoa xệ ra làm thân thể không còn đẹp, nên chẳng chịu cho con bú mà nhờ vào các hộp sữa, các chất dinh dưỡng nhân tạo. Từ đó, khiến con cái cũng bị còi cọt, thiếu sức sống, yếu ớt. Đó cũng là hành động không cộng tác vào duy trì và bảo vệ mầm sống cho trọn vẹn.
          Ước mong rằng, đừng một ai như Hêrôđê hoặc tệ hại hơn Hêrôđê xưa, chỉ vì sự ích kỉ cá nhân, sợ mất danh vọng chức quyền mà chà đạp hoặc giết hại người khác bằng cách này hay cách khác. Giảm đi lời mỉa mai, bôi nhọ, hạ nhục nhân phẩm-danh dự của tha nhân; thay vào đó là gia tăng lời nói yêu thương, gieo rắc bình an, hòa bình,  hoan lạc, vị tha, bác ái. Bỏ đi những tham sân si để tìm lợi ích chung cho cộng đồng.

          Hỡi các bà mẹ dù trẻ hay già! Hỡi các em sinh viên, học sinh! Hãy chung tay bảo vệ mầm sống của nhân loại một cách thiết thực nhất là chính các bạn đừng phá thai nhưng hãy sinh ra (nếu đã lầm lỡ) và chăm sóc con cái  một cách tận tâm, tốt nhất. Đó là hoa quả tình yêu của đôi bạn trao cho nhau. Hãy trân trọng! đừng xem nhau như trò chơi để thỏa mãn xác thịt-dục tính mà quên đi trách nhiệm cao cả khi được giao, đó là thiên chức làm cha làm mẹ. Hãy lên án mọi hành động phá thai, mọi hành động đi ngược lại việc bảo tồn sự sống.

Thursday, December 21, 2017

Friday, December 1, 2017

Học phương pháp lãnh đạo (Tư duy như bầy sói)
PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO- TƯ DUY BẦY SÓI
(Sưu tầm)



Ba con sói đi đầu (Khoanh đỏ) là những con già hay bệnh. Đây là những con chậm chạp nên đi đầu với mục đích là tạo & tốc độ di chuyển cho bầy sói. Mục đích chính là không có con nào bị bỏ rơi trong tình huống bầy sói bị tấn công.
Năm con trong nhóm khoanh màu vàng là những con khoẻ mạnh nhất và giỏi nhất. Nhiệm vụ của chúng là bảo vệ mặt trước của bầy sói, trong trường hợp chúng bị tấn công.
Nhóm nằm giữa là nhóm luôn đc bảo vệ & an toàn trong tình huống có bất kỳ sự tấn công nào.
Nhóm 5 con sau (khoanh màu xanh) cũng là 5 con khoẻ mạnh và giỏi nhất. Nhiệm vụ của nó là bảo vệ mặt sau của bầy trong tình huống có tấn công bất ngờ từ phía sau.
Con cuối cùng. Đây chính là con ĐẦU ĐÀN. Nó đi sau cùng để bảo đảm là không có bất cứ thành viên nào trong bầy bị tụt lại phía sau. Nó luôn đi sau cùng để giữ cho nhóm luôn là 1 bầy đoàn kết & đi cùng 1 hướng. Nó đi sau cùng để có thể chạy nhanh ra bất cứ hướng nào để bảo vệ cho cả đàn trong tình huống xấu nhất.
Bài học: Lãnh đạo,không phải chỉ là đi tiên phong. Mà cái chính là phải quan tâm đến những thành viên trong nhóm mình lãnh đạo.
Thậm chí lãnh đạo luôn là người ăn sau cùng.

Wednesday, November 29, 2017

Người lãnh đạo không chỉ có tâm mà cần phải có tầm (Anthony Dương Văn Hạnh)
NGƯỜI LÃNH ĐẠO, KHÔNG CHỈ CÓ TÂM MÀ CẦN CÓ TẦM
Dương Hạnh,  SVD Noviciate

Nơi tôi sinh ra là một vùng quê nghèo khô cằn sỏi đá; nơi tôi lớn lên quanh năm mưa lũ-hạn hán; nơi tôi trưởng thành là miền đất ôn hòa mát mẻ Đà Thành; nơi tôi hãm mình là thành phố nhộn nhịp người và các phương tiện giao thông... Ở những nơi ấy, mỗi nơi đều có những con người hướng dẫn đồng hành, giúp tôi nên người. Nơi gia đình, tôi có cha mẹ, anh em; nơi học đường, tôi có những người thầy cô tận tâm, tận lực; nơi thị thành tôi đang sống cũng có những người đại diện hướng dẫn tôi. Mỗi nơi một khác, mỗi nơi một môi trường và con người cũng khác nhau. Tôi đang sống trong một môi trường để tự rèn mình, tự đào tạo và từ bỏ mình để mai sau thành người phục vụ cho tha nhân. 
Hôm nay tôi có một vài cảm nhận về nơi tôi đang sống, về phẩm chất của một người lãnh đạo...
Thiết nghĩ, lãnh đạo không phải là người được cất lên, và dùng quyền lực để đàn áp, để chửi rủa. Nhưng lãnh đạo là người được mọi người đề cử, tin tưởng giao nhiệm vụ hướng dẫn một tổ chức, cơ quan hay một nhóm, nhằm hướng dẫn, chỉ đường để cho nhóm ấy phát triển bằng cả một tài điều khiển, bằng cả một tấm lòng và tầm nhìn sâu rộng mà những thành viên trong nhóm chưa nhận ra được.

Nơi tôi đang đi, nhiều vị lãnh đạo khiến tôi tâm phục khẩu phục về cả đức lẫn tài; trái lại cũng có nhiều vị kiến thức chưa được bao nhiêu mà hễ nắm quyền lực lãnh đạo là chỉ huy, là chèn ép; là chửi bởi cấp dưới của mình. Trong khi đó, chả có một tài năng, một phẩm chất gì gọi là "làm lãnh đạo".
Đơn cử như: 
Vị lãnh đạo chuyên đi soi mói, rình rập để bắt lỗi cấp dưới từng chi tiết nhỏ như ăn ra sao; mặc thế nào; quỳ ra sao...
Vị lãnh đạo mà khi có công việc lớn xảy ra, nhân viên cấp dưới tự đưa ra kịch bản, tự lên chương trình, tự làm với nhau đến kiệt sức mà lãnh đạo chỉ luôn cầm điện thoại gọi gọi, chỉ luôn biết chửi bởi mà không một lời động viên cấp dưới làm cho đúng tiến độ.
Vị lãnh đạo nơi đây khi mọi chương trình cấp dưới tự làm với nhau xong, thành công tốt đẹp ngoài tưởng tượng, thì chỉ việc nhận thành quả, nhận lời khen ngợi  từ "Ban quản trị" mà công khó nhọc của anh chị em nhân viên như bị đi vào quên lãng.
Vị lãnh đạo nơi đây, ban đêm dắt xe ra ngoài bằng cổng phụ chứ không dám đi cổng chính một cánh "quang minh chính đại".
Vị lãnh đạo nơi đây ăn nhậu để rồi bổn phận trước tổ chức như: kinh kệ, nguyện gẫm, lễ lạy... thì bỏ bê.
Vị lãnh đạo nơi đây chỉ biết nhận việc từ cấp trên xuống và chèn ép cấp dưới bằng những đòn chửi bởi và bộ mặt luôn luôn hằm hằm sát khí; chứ không biết bênh vực, bảo vệ cấp dưới. Phải chăng chỉ biết  "lấy điểm" điểm cấp trên?
Vậy làm sao để trở thành một vị lãnh đạo tốt?
Đó là một người vừa có tâm vừa phải có tầm.
Người lãnh đạo có tâm là luôn biết nghĩ cho cấp dưới mọi điều tốt nhất, luôn yêu thương, động viên khích lệ tinh thần cho cấp dưới làm việc; biết dịu dàng đôn đốc tất cả một lòng để hoàn thành công việc của tổ chức. Chứ không phải chỉ biết phó mặc cho cấp dưới làm gì thì tự lên chương trình, tự làm với nhau và chỉ biết đứng đó với bộ mặt sát khí, để luôn rình rập chửi bởi anh chị em.
Người lãnh đạo cần có tầm, bởi lãnh đạo "cù lần" thì tổ chức chỉ đi xuống, cấp dưới có làm theo thì cũng chỉ là làm với sự ép buộc, làm vì miếng cơm manh áo chứ không làm vì sự tâm phục khẩu phục tài lãnh đạo của cấp trên. Nếu người lãnh đạo không có tầm nhìn thì mọi việc chẳng bao giờ mang lại hữu ích cho tổ chức mà chỉ phá hoại tổ chức mà thôi. Tầm nhìn ở đây không đâu xa là kế hoạch làm việc, là đích đến của một chương trình, là thành quả nhắm đến đối tượng như thế nào... chứ không phải cứ nhắm mắt làm đi, và đến đâu thì đến, "hở" ở đâu thì thêm, thì chắp vá chỗ đó vv.
Làm sao để lãnh đạo cho tốt? Đó là người luôn đi đầu trong mọi công tác, làm gương mẫu cho cấp dưới noi theo, chứ không đứng chỉ tay năm ngón. Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng có nói: "Ngày nay người ta cần chứng nhân hơn là thầy dạy". Vậy người lãnh đạo cũng cần có phẩm chất đó. Chiếu theo chiều kích này, người lãnh đạo phải lấy tình yêu mà dịu dàng khuyên bảo; lấy đắc nhân tâm mà đối nhân xử thế; lấy việc làm của mình để làm mẫu gương phản chiếu cho anh chị em noi theo để thực hành. 
Nếu người lãnh đạo luôn dùng quyền lực để ép cấp dưới phải làm cái này, phải làm cái kia theo lệnh cấp trên đưa xuống mà không nghĩ đến anh chị em thì hỏng. Phải chăng có được sự vâng nghe thì cũng chỉ là trong gượng ép. 
Khi anh chị em mệt mỏi, đã không một lời động viên, hỏi han mà còn cáu gắt, nạt nộ họ: "giờ này còn ngủ hả? giờ này không làm việc hả? giờ này mà giờ ăn hả? giờ này còn nằm hả? (dưới thời ông "hói" Triết 2,SDD 2017) vv... Như thế thì thật sự thất bại nếu không dám nói là dần dần nên đồi bại, tồi tàn cho một triều đại lãnh đạo!
Thật vậy, để làm một vị lãnh đạo không hề đơn giản! Tôi đang sống trong môi trường nghiêm nhặt thật là tốt, nhưng cũng phải đối mặt dưới một triều đại lãnh đạo không có tâm mà còn chẳng có tầm. Suốt ngày đối mặt với bộ mặt sát khí và chịu nghe những đòn chửi vô nghĩa. Nhiều khi anh chị em nhân viên chúng tôi cũng nhắc thầm nhau: "đường đường là một người học triết, một đàn anh đi trước mà phát ngôn những câu nói ngỡ ngẩn, vô căn cứ". Thật đáng buồn! Tôi nghe anh chị em cùng cấp kể lại rằng, một ngày lễ bổn mạng gần đến, lúc chuẩn bị thì ông ta nói: "Anh em treo bảng cổng chào này sai, không đúng. Phải là: 'Hân hoan chào mừng quý Cha, quý Tu sĩ, và quý Khách' chứ không phải là 'hân hoan chào đón quý Cha, quý Tu sĩ, và quý Khách". Khi tôi nghe như vậy, tôi nhức nhói trong lòng. Tại sao lại có người vừa kém tài, kém đức thế mà vẫn được cất làm lãnh đạo? Phải chăng... 
=================================================
*******************************************************
Post in: lãnh đạo, người lãnh đạo, lanh dao, nguoi lanh dao, có tâm, có tầm.





Xin mọi người đăng ký Kênh để thoi dõi những kiến thức hay, bổ ích được chia sẻ tại đây nhé:

Saturday, November 11, 2017

Ngày ấy Ngài thử thách con (Thơ) - Anthony Dương Văn Hạnh

NGÀY ẤY NGÀI THỬ THÁCH CON

(Anthony Dương Hạnh, Vie)


Dòng đời sao lắm bon chen
Ngược xuôi dong duỗi lắm phen đi tìm
Gian trần tạm bợ tìm chi...?
Miếng cơm manh áo tình si sớm tàn.

Đã quyết dứt bỏ thế gian
Bước đi theo Chúa, trần gian khỏi cần!

Xin tha hết  lỗi hết lầm
Cứu mau ôi Chúa! khỏi phần nhuốc nhơ
Tìm về hồn một trẻ thơ
Lòng con không chút vấn vơ tư tình

Một lòng theo Chúa thật tình
Quyết tâm sống trọn cuộc tình hiến dâng
Hầu mưu ích cả nhân trần
Một ngày cùng Chúa hưởng phần phúc vinh.

(Nha Trang city, 08/11/2013)

Sunday, November 5, 2017

Nhà đào tạo- Lời nói phải đi đôi với việc làm (Anthony Dương Văn Hạnh)
NHÀ ĐÀO TẠO
 LỜI NÓI PHẢI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM

        (Anthony Dương Văn Hạnh)

Nhiều khi trong cuộc đời, có kẻ chỉ biết lắm miệng, việc gì cũng nói-cũng xen vào mà chẳng chịu bắt tay vào làm. May chăng chỉ được cái miệng thì giỏi. Cố nhân từng nói: “khoảng cách từ cái miệng đến tay tuy gần nhưng xa vời vợi”. Nói là một chuyện, còn làm hay không lại là chuyện khác.

          Trong cuộc sống hiện tại, có một nghịch lý đó là nói mà không làm, hay nói một đàng làm một nẻo- điều mà quốc tế vẫn sợ nơi người dân Việt. Trong phạm vi luận bàn hôm nay, tôi xin nói về nhà đào tạo trong đời sống tu trì.
          Cụ thể là: Việc trốn tránh công việc, chọn phần tốt về mình; miệng nói nhiều mà làm chẳng bao nhiêu. Trong khi đó chỉ biết lên án, soi mói, chỉ trích, dạy đời người khác.
         Trước hết, nhà đào tạo là ai? Đó là những người được cất nhắc để hướng dẫn, bảo ban, dạy dỗ thế hệ đi sau nên người hoàn thiện.
        Làm một vị đào tạo- người hướng dẫn mà chỉ biết nhìn một cách phiến diện và không chịu “mở” để đón nhận những cái mới, thể hiện: Đường đường là một người đã học triết học mà phát ngôn những câu nói ngu xuẩn, đánh giá người khác là “thiếu tôn nghiêm, thiếu nhân bản, làm việc như để cho có lệ”. Với lí do chỉ vì người anh em đi vào Nhà nguyện mà không chịu quỳ xuống, thay vào đó là ngồi ngay vào ghế và gác chân lên chỗ nệm quỳ.
          Tôi thử hỏi, tại sao lại đánh giá ngu xuẩn và phiến diện như vậy? Tôi cho rằng:
         Thứ nhất, Nhà nguyện đó có đặt Mình Thánh Chúa không? Nếu không đặt thì không có Thánh Thể hiện diện, nhưng Bàn thờ vẫn luôn là trung tâm điểm.
         Thứ hai, Chúa ở khắp mọi nơi thông biết mọi sự, Ngài ở cả trong phòng ngủ, phòng tắm, nơi học tập, nơi vườn tược vv; Ngài sẵn sàng nghe bạn tâm sự dù bạn đứng, nằm, ngồi hay quỳ.
         Thứ ba, từng cử chỉ như quỳ-ngồi-đứng đều thể hiện sắc thái, ý nghĩa riêng của nó. (Quỳ thể hiện sự khiêm tốn, tâm tình sám hối’; ngồi thể hiện trạng thái bình an của đương sự, đang ngồi tâm sự với Chúa; đứng thể hiện sự hân hoan, tung hô, ca tụng). Tuy nhiên, đừng chỉ nhìn cử chỉ bên ngoài mà cho rằng đó là một người đạo đức… Trong lòng người đó thế nào chỉ có mình Chúa mới biết được, “không ai có quyền xét đoán người khác, mà chỉ có một mình Đấng ra lề luật xét xử mà thôi”. Đức Giêsu nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em”.
          Vậy, tại sao lại đánh giá người anh em không có hoặc thiếu nhân bản chỉ vì hành động vào Nhà nguyện không quỳ? Tôi đặt lại vấn đề, người hướng dẫn thiếu nhân bản, thiếu hiểu biết hay chúng tôi là người thiếu hiểu biết?
          Thứ năm, ở các nước Tây phương, Linh mục dâng lễ nhiều khi người ta chỉ mang mỗi cái dây các phép; giáo dân tham dự Thánh lễ chỉ mặc quần sooc. Như thế, các vị cũng nhìn và cho rằng họ thiếu nhân bản, thiếu tôn nghiêm trong Phụng vụ sao? Hay là các vị đang thiếu hiểu biết về các nền văn hóa của họ? Tại sao không nhìn nhận sự khác biệt về phong tục, về văn hóa vùng miền, sắc tộc mà chỉ đánh giá dưới não trạng “cổ lỗ sĩ” của một người dân theo phong tục Việt Nam? Thiên Chúa chúng ta có đi chấp những hành động như vậy hay không? Ngài từng nói: “ Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13). Phải chăng các vị đào tạo đang nhìn dưới con mắt của một Pharisêu giả hình, chỉ ưa hình thức, chỉ biết lên án anh em? Đức Giêsu cũng từng dạy: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (Mt 7, 4-5).
          Điểm tiếp theo, làm một vị đào tạo, người hướng dẫn phải là một người anh. Mà người anh thì phải làm gương sáng cho đàn em noi theo chứ đừng làm gương tối. Gương sáng là phản chiếu của một người có đời sống trưởng thành về nhân bản, về cách nói năng, cử xử. Làm sao để có ái đầu óc điều hành chứ đừng lạm dụng quyền lực. Nếu nhà đào tạo chỉ biết dùng quyền để áp đặt, để đòi buộc những người được đào tạo phải thi hành ý muốn chủ quan của mình, nhằm thỏa mãn lòng dục- được vị nể, được ca tụng, được nịnh hót, để người ta biết mình là người có quyền; mà không biết dùng đầu óc để dìu dắt, hướng dẫn cho thấu tình đạt lý để người anh em tự trưởng thành, khâm phục về tài lãnh đạo hay đời sống của minh thì thật sự đã sai lầm. 
          Sai lầm thứ nhất, vì trong bối cảnh dân trí ngày càng lên cao, hiểu biết rộng mà chỉ biết đào tạo theo kiểu ngu dân, theo chính sách đàn áp của cộng sản vẫn làm (các vụ đàn áp tôn giáo ở Đan Viện Thiên An-Huế; Kon Cuông-Nghệ An; Thái Hà-Hà Nội; Tam Tòa- Đà Nẵng mà báo chí vẫn đưa tin rộng rãi những năm gần đây); hay chỉ đào tạo theo kiểu chế độ phong kiến thời xưa thì sai lại càng sai. 
          Sai lầm tiếp theo, các vị đang đào tạo những người tri thức trở thành người vừa giàu tri thức vừa giàu nhân cách, chứ không phải đào tạo một đứa trẻ lên ba (bạ đâu nói đó, gặp trái ý là quát nạt, lạm quyền chèn ép). Đó cũng là sai lầm, đào tạo thiếu hiểu biết, thiếu khoa học.
          Nếu các vị chỉ biết đào tạo một người trưởng thành bằng cách ép cho họ phải “nín thở qua cầu rút ván” thì dễ. Còn các vị đào tạo một người vừa “tâm phục, khẩu phục” mình, vừa tự lớn lên, tự trưởng thành nhận ra khuyết điểm mà sửa đổi cho hoàn thiện. Ấy mới là nhà đào tạo giỏi, và thật sự đáng nói.
          Làm sao để là một nhà đào tạo tốt? Đó là người dám nói, dám làm; quyết định, cương quyết, dẫn đầu làm gương sáng cho em út noi theo. Đó là người không sợ cấp trên chỉ trích vì “làm không được việc”; sẵn sàng chịu mọi rủi ro do mình quyết định cho em út thực hiện. Nhà đào tạo tốt phải là người không tìm cách làm việc để lấy điểm, lấy lòng cấp trên, nhằm “thăng quan tiến chức”. Những người như vậy chỉ là những nhà đào tạo tồi!
          Người đào tạo là nhà giáo dục, không phải ai cũng làm đào tạo được. Làm một nhà đào tạo, hướng dẫn phải biết dùng cái đầu chứ đừng dùng đến quyền lực quá. Nếu ai chỉ biết thu tích về cho mình bằng các việc làm khuếch trương lấy điểm cấp trên thì thật sự không nên làm đào tạo. Như thế sẽ làm hỏng thế hệ trẻ tương lai. Nếu ai hèn nhát, sợ sệt, không dám quyết định, cũng không dám đương đầu chịu trách nhiệm, hệ quả rủi ro; hoặc chỉ biết nói, lên án mà không chịu làm gương cho người khác noi theo thì cũng đừng nên làm đào tạo. Ước mong rằng bạn cũng như tôi có được nhận định đúng cho hướng đi của mình, chọn đúng công việc, phận vụ theo khả năng có thể. Tất cả vì thế hệ tương lai, vì danh tiếng và sự tồn vong của tổ chức của mình.


Friday, November 3, 2017

Chính Chúa chọn con- Sáng tác: Hồng Bính

CHÍNH CHÚA CHỌN CON

(Một sáng tác đặc sắc, đầy ý nghĩa mà Hồng Bính viết tặng con gái- Sr. Maria Bích Nga, nhân ngày Vĩnh khấn 16/06/2016)

 Xin chia sẻ đến độc giả vì quá tuyệt vời!


Xin mọi người đăng ký Kênh để thoi dõi những kiến thức hay, bổ ích được chia sẻ tại đây nhé:

Sunday, September 17, 2017

Vần thơ viết vội (Anthony Dương Nguyễn Vie)

VẦN THƠ VIẾT VỘI

Anthony Dương Nguyễn Vie

Biết nhau chi cho lòng thêm nhung nhớ
Gặp nhau gì để nỗi nhớ khôn nguôi
Mặt đối mặt nói lời gì đây nhỉ!
Cứ lặng thinh dẫu hàng lệ ứa trào
Tình cho đi không nói nên lời
Tình giữ lại một trái tim si
Tình cho đi ẩn bóng "tung hỏa mù"
Yêu, không nói một lần ngơ
Yêu, chỉ giữ dại khờ lắm thay!
Cùng "một bóng hồng" kia thôi
Nếu được lựa một trong hai rõ ràng
Ta xin theo tiếng Tim rằng:
Chọn tình nam nữ đổi tình chị em

Sunday, September 10, 2017

Dòng đời, dòng thời gian (sưu tầm)

DÒNG ĐỜI & DÒNG THỜI GIAN

Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày
Qua lời bài hát “Cát bụi” của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Tôi chợt nghĩ về “ thời gian” và “ đời người”. Hai cụm từ này luôn song hành với mỗi người chúng ta dù anh giàu hay nghèo, già hay trẻ, là ông lớn, bà nọ hay chỉ là một anh nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Ai là người sinh ra chỉ để hưởng thụ, vừa mở mắt miệng đã ngậm cục vàng. Ai là người sinh ra để mưu sinh vất vả trên đường đời.
"Vì bạn mỗi ngày đang sống” là câu tựa của một bài viết mà tôi đã đọc qua ở đâu đó. Khiến tôi phải dừng lại trong một khoảnh khắc trên cái tư tưởng bấy lâu để suy nghĩ, nghĩ xem mình đang ở đoạn nào của đường đời, đang làm gì, đã làm được gì và đã sống thế nào. ...v.v. Có lẽ những phát hiện đó chính là ý nghĩa của cuộc sống. Hãy sống hết mình, hãy làm những việc mình muốn sao cho không hổ thẹn lương tâm, hãy trao yêu thương cho ai xứng đáng . Bởi dòng thời gian như một dòng sông chỉ chảy theo một hướng. Nó cuốn đi cả niềm vui, nỗi buồn, bao lao công vất vả...vv.Là những thứ mà ai cũng đã, đang và sẽ trải qua trên chặng đường sinh tử. Thời gian là một thứ vô tri, không đợi tôi hay đợi bạn, nó chỉ biết lẳng lặng trôi đi. Ngày mai hay một hôm nào đó chính tôi hay chính bạn sẽ không còn cơ hội để làm những điều mình muốn. Thế đấy dòng thời gian là một cách nhìn muôn màu về sự lặng lẽ, cứ trôi đi theo một chiều mặc ai kêu ca hay hối hận. Nó ích kỷ chỉ biết đi qua mỗi người mà đa số khi qua được một đoạn dài trên con đường đời thì người ta mới chợt nhận ra “ à, mới đó mà đã .....năm rồi”. Tự xét lại, nghĩ về con đường ngoằn nghèo mà mình đã đi qua. Lúc đó người ta hay nghĩ đến hai từ “giá như” . Nhưng thời gian nó đâu biết vậy, chỉ đi và đi không ngừng nghỉ. Nếu ai cũng biết trước được những việc mình sẽ trải qua, sẽ làm trong tương lai để rồi thảnh thơi ngồi chờ thì cuộc sống còn gì là ý nghĩa, đâu còn sự tò mò, nhiệt huyết phấn đấu rèn luyện, đâu còn những trải nghiệm, những bài học sương gió đắt giá từ những cú ngả đau điếng để rồi tự mình vực dậy và quyết tâm với một tinh thần thép mới. Những thứ tôi muốn mua thì nhiều mà không bao giờ có người bán. Vốn kinh nghiệm sống là một trong số đó. Nó là món quà vô giá mà dòng thời gian ban cho mỗi người, dù bạn có nhiều hay rất nhiều tiền cũng không thể mua được.
Tôi đã học được một phần cái gọi là cuộc đời. Nhưng có lẽ chỉ là một nhận định, một cách nhìn ít chiều từ một số góc độ nhỏ hẹp mà tôi đã rút ra từ những trải nghiệm của chính mình. Có nhiều người đã tự lập ra công thức về cuộc đời. Bạn cũng hãy tự lập cho mình. Với tôi, nói đơn giản “Cuộc đời = cách nghĩ + hành động + nhiệt huyết + năng lực”. Đó là yếu tố quyết định bạn sẽ ra sao, sẽ thế nào. Cách nghĩ, tư tưởng làm biến đổi thái độ nhìn nhận sự việc, thái độ thay đổi sẽ tương tác đến hành động, hành đông có thêm nhiệt huyết, năng lực sẽ đi theo hứng tích cực, hành động thay đổi dẫn tới thói quen từ từ thay đổi, dần đi vào quỹ đạo do chính bạn làm chủ. Từ đó cuộc đời sẽ biến đổi kết hợp hài hoà với thời gian. Cuộc đời ta, tư tưởng, suy nghĩ bấy lâu có thể bị thay đổi tại một khoảnh khắc bởi một người nào đó hay bởi một sự đánh động khiến mình bất giác được tỉnh thức tại một khoảnh khắc trên đồng hồ thời gian. Mỗi người có một cuộc sống, đừng bao giờ coi những khó khăn trước mắt là bức tường cản trở ta. Hãy coi chúng là những bài học mà dòng thời gian mang lại để ta ngày càng hoàn thiện, trưởng thành hơn. Hãy coi chúng như những dấu câu câu. Phải biết vượt qua dấu lặng của cuộc đời. Nếu mới gặp dấu “,” mà đã nản lòng thì liệu gặp dấu “.” là những biến cố lớn hơn bạn sẽ ra sao? Tôi và bạn chúng ta đang cầm tuổi trẻ trên tay, dồi dào sinh lực, trí tuệ...v.v. cảm thấy như một triệu phú. Chúng ta giàu, hãy sử dụng sự giàu có đó một cách không ngoan, đúng đắn. Đừng
mất phương hướng, đừng để nội lực tràn trề của tuổi trẻ bị hao phí vô nghĩa.
nguồn: Augustino Phong Nha (sưu tầm)
Triết học Công giáo của thánh Augustino (sưu tầm)
(nguồn: http://catechesis.net/index.php/triet-hoc/triet-tay/tu-tuong-triet-hoc/878-triet-hoc-kito-giao-cua-thanh-augustine)
I. VẤN NẠN CHÍNH YẾU

Từ thời trẻ, thánh Augustine đã trãi nghiệm sự xáo trộn nội tâm sâu xa khiến thánh nhân dấn cả cuộc đời đi tìm sự khôn ngoan đích thực và sự bình an nội tâm. Vì thế, câu hỏi nền tảng luôn lập đi lập lại đối với thánh nhân bấy giờ là
- Làm sao có được sự khôn ngoan đích thực và sự bình an nội tâm.
- Tại sao cái ác luôn luôn tồn tại trên thế gian này?
Trên hành trình tìm kiếm này, thánh nhân thấy rằng những tư tưởng Kitô giáo và những kiến thức giáo lý mà ông học từ nhỏ không làm ông thỏa mãn. Vì thế, ông đến với giáo phái Manichaeans vì ngỡ tưởng rằng nơi đây thánh nhân sẽ tìm thấy lời giải đáp cho những thắc mắc của mình. Nhưng giáo phái này chỉ làm cho thánh nhân thất vọng. Sau đó ông quay sang các nhà triết học hoài nghi, nhưng một lần nữa thánh nhân lại thất vọng bởi họ cho rằng con người không hoàn toàn sở hữu được chân lý.
Rồi tình cờ, thánh nhân đọc được tác phẩm “Enneads” của Plotinus. Chính thuyết Plato mới này có những điều gây ấn tượng mạnh đối với ông và đã cung cấp cho ông những điều ông tìm kiếm. Tuy nhiên, vấn đề đạo đức của ông vẫn chưa được giải quyết bởi ông quan niệm rằng sức mạnh đạo đức phải cân xứng với sự hiểu biết tri thức. Vì thế, ông tiếp tục hành trình tìm kiếm. Và sau cùng, ông đã tìm ra được lời giải đáp cho vấn đề đó nhờ những bài giảng của thánh Ambrose.
Trải qua hành trình dài tìm kiếm chân lý, ông kết luận rằng thế giới vật chất hay thay đổi không thể cung cấp cho con nguời tri thức đích thực hay an bình nội tâm, thánh nhân khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa là nguồn bình an đích thực và là chân lý vĩnh cửu. Như thế, có thể nói rằng vấn nạn chính yếu của thánh nhân là làm thế nào để trí khôn con người vươn tới Thiên Chúa?
Để trả lời cho vấn nạn này, thánh nhân đã gạn đục khơi trong những tư tưởng của các triết gia thời trước ngài như Plato, Aristotle, Plotinus ; đồng thời kết hợp những tư tưởng đó với Đức tin (chân lý mạc khải của kinh thánh).
Đầu tiên ngài cho rằng hành trình truy tìm chân lý vĩnh hằng là sự lần mò, trong đó có nhiều ký hiệu để hướng dẫn về với Thiên Chúa. Và để thấy những ký hiệu đó thì cần có ánh sáng để soi dẫn giống như việc chúng ta không thể thấy được sự vật nếu sự vật ấy không chìm ngập trong ánh sáng. Vì vậy, ngài kết luận rằng trí khôn con người cần có sự soi sáng để có thể “thấy” những ký hiệu đó. Điều kiện để phân biệt được đâu là ký hiệu đúng đâu là ký hiệu sai là chúng ta tin vào Mạc khải. Chính Mạc khải giúp chúng ta vươn lên trên lý trí, giúp ta tin vào ký hiệu (Kinh Thánh) và thẩm quyền của đối tượng vĩnh cửu là Thiên Chúa. Sau khi đã chấp nhận những ký hiệu, chúng ta hãy đi giải mã những ký hiệu đó với chìa khóa “yêu”.  Và theo thánh nhân tình yêu này phải có trật tự: Trước hết là Thiên Chúa, thứ đến là chính mình – tha nhân, sau cùng là sự vật.
Và khi đã giải mã đuợc những ký hiệu đó, con người sẽ vươn lên tới Chúa là nguồn của hiện hữu và chân lý và là thực tại vĩnh cửu duy nhất.
II. CÁC SUY DIỄN TỪ TIỀN ĐỀ ĐẾN KẾT LUẬN
1. Tiền đề của triết học Augustines
Plato cho rằng thế giới là kết quả của việc Thượng Đế phối hợp các hình thức và các khoảng chứa vốn tồn tại độc lập. Còn Plotínus cho thế giới là sự mở rộng của chính Thiên Chúa, nhưng Augustine khẳng định: Thế giới được tạo dựng bởi Thiên Chúa từ hư vô, đây là nguồn chân lý vĩnh cửu, tất yếu và con người có thể nhận thức được nguồn chân lý tối cao này, Augustines không đồng ý với cách thức nhận thức là sự nhớ lại của hồn của như triết học của Plato, hay nhân thức mô thể và các nguyên nhân như Aristotle, ông cho là con người có thể nhận thức từ Thiên Chúa, mà chân lý này trước tiên phải được mạc khải từ chính Thiên Chúa vĩnh cửu.
2. Cách suy diễn của Thánh Augustines
a. Thiên Chúa là thực tại tối cao, tạo ra thế giới khả giác.
Thiên Chúa tạo ra thế giới, nên Thiên Chúa là nguôn chân lý cao nhất tất yếu và vĩnh cửu, nhưng Thiên Chúa không đồng nhất với thế giới mà siêu việt, vượt ra ngoài thế giới.
Augustine không mấy quan tâm tới những suy nghĩ tư biện về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Ông quan tâm tới bản chất và cách hiện hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chân Lý nên phần nào Thiên Chúa ở trong con người. Nhưng vì Thiên Chúa là vĩnh cửu nên nên người cũng siêu vượt con người. Vũ trụ chúng ta là phản ánh cái hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa. Tất cả sự hiện hữu của sự vật đều đến từ Chúa vì Ngài là nguồn mạch mọi sự hiện hữu. Thiên Chúa không ở trong không gian và thời gian, là cái hiện hữu thuần túy cao nhất, là chân lý tuyệt đối và thực tại vĩnh cửu. Bản chất của Thiên Chúa là tồn tại, mà tồn tại là hành động và hành động là tư duy, còn hiện hữu vĩnh cửu là toàn tri.
b. Con người có khả năng nhận thức được Thiên Chúa, thực tại vĩnh cửu.
Thiên Chúa là Chân Lý nên phần nào Thiên Chúa ở trong con người. Nhưng vì Thiên Chúa là vĩnh cửu nên nên người cũng siêu vượt con người. Vậy phải có cách để con người nhận thức Thiên Chúa. Augustine đã đi từ những tư tưởng của các triết gia trước ngài như Plato, Aristotle, Plotinus… rồi kết hợp những tư tưởng đó với Đức tin (chân lý mạc khải của Kinh Thánh). Đầu tiên ngài cho rằng hành trình truy tìm chân lý vĩnh hằng là sự lần mò, trong đó có nhiều ký hiệu để hướng dẫn về với Thiên Chúa. Và để thấy những ký hiệu đó thì cần có ánh sáng để soi dẫn giống như việc chúng ta không thể thấy được sự vật nếu sự vật ấy không chìm ngập trong ánh sáng. Vì vậy, Ngài kết luận rằng trí khôn con người cần có sự soi sáng để có thể “thấy” những ký hiệu đó nơi các tạo vật. Điều kiện để phân biệt được đâu là ký hiệu đúng chúng ta phải tin vào Mạc khải. Chính Mạc khải giúp chúng ta vươn lên trên lý trí, giúp ta tin vào những dấu hiệu (Kinh Thánh) và tin vào thẩm quyền của đối tượng vĩnh cửu là Thiên Chúa.
c. Sự dữ là sự vắng mặt của hữu thề.
Giải thích tại sao có sự dữ.
1/ Bản chất của sự dữ:
- Tất cả mọi sự được tạo thành nguyên thủy là tốt đẹp, tất cả do Thiên Chúa tạo ra mới có, do sự dữ không phải là tốt lành nên sự dữ không đựơc tạo thành.
- Tốt lành là có hữu thể, vì sự dữ không được Thiên Chúa tạo ra nên không có hữu thể, tự nó không có hữu thể hay nói cách khác sự dữ là sự vắng mặt hay khuyến khuyết của  hữu thể, nó chỉ là ký sinh trùng ăn bám vào những thứ khác của hữu thể.
2/ Sự dữ xuất hiện như thế nào?
- Sự dữ xuất hiện từ sự lạm dụng tự do của con người (lạm dụng tự do mà Chúa ban cho).
3/ Sự dữ diễn ra hoặc bày tỏ như thế nào?
- Sự dữ diễn ra theo hai cách:
+ Tội lỗi (do con người sinh ra): đó là tội luân lý. Do con người lạm dụng tự do.
+ Sự dữ tự nhiên (do tự nhiên hay thiên nhiên). Xuất phát do mức độ hoàn hảo khác nhau trong vũ trụ.
3. Kết luận của Thánh Augustines
Thiên Chúa là đấng tạo dựng thế giới và là thực tại tối cao con người cần hướng đến. Chỉ một mình Thiên Chúa là hằng hữu. Mọi vật là sản phẩm của hành vi tự do của Thiên Chúa. Mỗi tạo vật thể hiện một nét đẹp riêng của Thiên Chúa, vì vậy trong mỗi sự vật đều ẩn tàng sự hiện diện của Chúa, đó là những dấu chỉ, là những ký hiệu để con người nhận biết Thiên Chúa. Con người có thể nhận thức được nguồn chân lý vĩnh cửu này thông qua sự mạc khải, nguồn ánh sáng của Thiên Chúa, đây là sự soi sáng phán đoán của chúng ta, nhờ đó chúng ta có thể nhận ra rắng những ý niệm nào chứa đựng chân lý tất yếu và vĩnh cửu.
III. KẾT LUẬN CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
A. Đạo đức học của Augustino đối với cá nhân
Đạo đức học của Augustino là tìm tiêu chuẩn để sống tốt.
Hạnh phúc của Augustino là gì? Nếu như Aristotle cho rằng người ta được hạnh phúc khi họ hoàn thành chức năng của mình bằng sự trung dung, thì Agustine cho rằng hạnh phúc đòi người ta vượt lên khỏi tự nhiên để đạt tới siêu nhiên. Agustine viết: “lạy Chúa, Chúa đã dựng chúng con nên cho Chúa, vì thế tâm hồn chúng con sẽ không được nghỉ ngơi cho tới khi nó tìm được sự nghỉ ngơi trong Ngài”. Như vậy Thiên Chúa là nguồi chân lý vĩnh cửu, nguồi thực tại tối cao tạo dựng nên con người với mục đích lôi cuốn con  người trở về với nguồn hạnh phúc vĩnh cửu, đó chính là Thiên Chúa.
1. Tiêu chuẩn sống tốt là tình yêu có trật tự
- Thiên Chúa
- Con người – tha nhân
- Sự vật
Như vậy, tội bị gây ra bởi sự lẫn lộn giữa các trật tự này, chẳng hạn chúng ta đặt cái tôi lên trên Thiên Chúa thì đó là tội kiêu ngạo, còn đặt tha nhân cao nhất là tội thần thánh hóa, còn đặt sự vật lên trên Thiên Chúa là tội thờ ngẫu tượng.
2. Tiêu chuẩn sống tốt đặt ra với điều kiện là con người được tạo dựng có tự do
Qua lăng kính của Thiên Chúa:

Như vậy thưởng hoặc phạt không thuộc về Thiên Chúa mà thuộc về sự tự do của ta và có giá trị cao hơn không tự do. Do nó ảnh hưởng đến vận mệnh của con người cả đời này và đời sau. Vậy Thiên Chúa tạo dựng con người có tự do tốt hơn không là không có tự do.
B. Đạo đức học của Augustino đối với chính trị và xã hội
Ông đặt ra vấn đề con người sống trong xã hội lẫn lộn giữa những người tin và không tin, vì thế quan điểm đạo đức học chia xã hội loài người thành hai thành đô:
Thành đô Thiên Chúa và thành đô trần thế.
Thành đô Thiên ChúaThành đô trần thế
- Sống theo ý chí Thiên Chúa
- Những người mộ đạo, nhân từ, để cao tình yêu lý chí và sức mạnh tinh thần.
- Yêu kính Chúa, quên thân mình.
- Sống hôm nay, kỳ vọng vào ngày mai.
- Sự đồng cảm giữa các thành viên
- Sống theo chuẩn mực con người.
- Những kẻ ích kỷ, đề cao tiện nghi và lạc thú vật chất.
- Yêu bản thân quên cả Chúa.
- Sống hôm nay biết hôm nay.
- Thù địch và đối kỵ giữa các thành viên.
Chính vì có hai loại thành đô mà có hai loại công dân:
- Những người sống theo tình yêu có trật tự
- Những người không sống theo tình yêu có trật tự
---> Như vậy không thể phán đoán họ dựa vào hình thức bên ngoài
Ưu điểm của đạo đức chính trị của Augustino là không độc đoán như Platon, chúng ta phải học cả từ nơi người tốt và người xấu. Đạo đức học Augustino thì kiên nhẫn, bao dung hơn đạo đức học của Platon. Phán đoán con người bằng tâm chứ không phải bằng hoạt động bên ngoài.
1. Ảnh hưởng đạo đức của Augustino đối với thời xưa
Giải quyết vấn đề Donatis (bắt đạo) trong thời bắt đạo một số giám mục đã nộp Kinh thánh và vì thế bị coi là những giám mục chối đạo; các giám mục không chịu nộp Kinh thánh thì xuống hầm trú ẩn và sau một thời gian được giảng đạo một cách tự do thì xảy là các giám mục không nộp Kinh thánh coi các giám mục nộp Kinh thánh là những kẻ chối đạo. Vậy khi các giám mục bị coi là chối đạo ban các Bí tích có thành hay không, đó vấn đề mà Augustino đã giải quyết thành công dựa vào dụ ngôn cỏ lung trong Tin Mừng Mát-thêu. Qua đó chúng ta thấy Augustino là người rất nhân từ và có thái độ kiên nhẫn, thông cảm đối với người tội lỗi vì bản thân ông cũng đã một thời tội lỗi.
Vấn đề tội tổ tông là điểm son của Augustino. Con người muốn trở về với bản thân mình chứ không muốn hướng đến Thiên Chúa. Điểm đặc biệt là ông đã giải quyết vấn đề rửa tội cho con người ngay từ khi mới sinh ra chứ không phải để lớn lên như thói quen thời bấy giờ.
2. Ảnh hưởng đạo đức của Augustino đối với thời nay
Giáo Hội vẫn lấy tinh thần của thánh Augustino để áp dụng trong việc rửa tội cho các trẻ em mới sinh ra.
Công đồng Vaticano II giải thích tội tổ tông theo hai khía cạnh:
+ Con người tốt lành nhưng thích đi ngược lại sự tốt lành, kết nối mọi người có chung một nguồn gốc.
+ Tội tổ tông không phải đến từ máu huyết, nhưng mà từ môi trường, bối cảnh sinh sống đã có tội nên dễ bị tiêm nhiễm tội.
Hai vương quốc: Augustino chia xã hội loài người thành hai thành đô, hai vương quốc: vương quốc điều ác là nhà nước trần thế, và vương quốc Thượng đế trên trái đất là Nhà thờ, là Giáo hội. ông khuyên con người ta hãy từ bỏ của cải mà yêu mến Chúa với tất cả tấm lòng. Cuộc sống trần thế chỉ là tạm bợ, con người chỉ là khách bộ hành chốc lát trên trái đất, hạnh phúc ở thế giới bên kia mới là vĩnh cửu.
IV. NHẬN ĐỊNH
Tri thức luận của Augustines chủ yếu dựa vào bản tính của con người, giống như tư tưởng của Plato giải thích về bản tính con người là sự kết hợp giữa hồn và xác. Linh hồn là một bản thể tham dự với lý tình có khả năng chi phối hoạt động của thể xác, Nhưng khác với Plato, thánh Augustine tin rằng con người là một tạo vật từ Thiên Chúa, được tạo ra với mục đích là trở về với Thiên Chúa là nguồn chân lý và hạnh phúc vĩnh cửu, trong con người phần nào đó đã có Thiên Chúa, nên trong con người có khả năng nhận thức được chân lý tuyệt đối là Thiên Chúa.
Linh hồn (trí khôn) con người nhận thức qua 4 mức độ sau:
- Đối tượng của cảm giác.
- Cơ quan thể xác cảm giác lệ thuộc.
- Hoạt động trí khôn tạo ra hình ảnh hình ảnh của đối tượng.
- Đối tượng phi vật chất để trí không phán đoán.
Như vậy chúng ta có 2 đối tượng khác nhau của quá trình nhận thức:
1. Đối tượng của giác quan (vật chất hiện hữu).
- Đối tượng của giác quan đó là những vật chất hiện hữu. Giác quan tạo ra những tri thức, nhưng ở bậc thấp nhất của nhận thức, vì chúng ít chắc chắn do chủ yếu 2 nguyên nhân sau:
+ Các đối tượng giác quan hay thay đổi.
+ Các giác quan của chúng ta hay thay đổi.
2. Đối tượng của trí khôn (Các chân lý vĩnh cửu).
Đối tượng trí khôn là những đối tượng phi vật chất tạo ra những nhận thức chắc chắn khi trí khôn chiêm ngưỡng những chân lý vĩnh cửu, không lệ thuộc các giác quan, đó chính là chân lý phổ quát, chân lý vĩnh cửu. Theo Augustines cấp độ tri thức cao nhất là nhận thức về Thiên Chúa.
Như vậy, con đường đi đến nhận thức về Thiên Chúa, chân lý vĩnh cửu có 2 bước:
- Từ bên ngoài bước vào trong
- Và từ dưới thấp hướng lên trên cao.
* Điều kiện để trí khôn nhân biết được chân lý vĩnh cửu và tất yếu: thì trí khôn con người cần có một thứ ánh sáng để nhận biết những chân lý vĩnh cửu. Augustines đã phát triển học thuyết ánh sáng. Thiên Chúa chính là nguồn ánh sáng này, nó là sự phán đoán của chúng ta nhờ đó chúng ta có thể nhận ra những ý niệm nào là chân lý, là tất yếu và vĩnh cửu. Như vậy linh hồn được tạo bởi Thiên Chúa nên Thiên Chúa soi sáng để linh hồn từng bước trở về với Thiên Chúa ngay trong thân xác con người.
Theo augustines, trong thế giới khả giác chúng ta không thể nhận thấy các sự vật vật lý (vật chất) nếu không có ánh sáng mặt trời, thì trong thế giới khả tri chúng ta cũng không thể “nhận thấy” những đối tượng duy lý (phi vật chất) nếu không có sự soi sáng của Thiên Chúa.
* Phương thức để con người nhận biết đâu là chân lý: để đạt đến chân lý cuối cùng là Thiên Chúa, con người phải “Tin” chấp nhận thẩm quyền của các đối tượng ký hiệu (dấu tích, ngôn ngữ) và chìa khóa để giài các ký hiệu này là “tinh yêu”, một tình yêu có trật tự theo những mức độ ưu tiên: Thiên Chúa, bản thân - tha nhân, sinh vật, vật chất.
* Thiên Chúa là nguôn chân lý cao nhất tất yếu và vĩnh cửu.
- Con người là tạo vật hữu hạn, có trí khôn khác khao để đạt trí khôn vượt quá khả năng của thế giới hữu hạn.
- Hoạt động của trí khôn giúp ta nhận ra có một đấng vĩnh cửu soi sáng trí khôn chúng ta.
- Đối tượng tri thức là vĩnh cửu cao hơn trí khôn con người.
- Đối tượng đó không phải là sản phẩm của trí khôn con người, nó cao hơn trí khôn  và bất di bất dịch, nguồi chân lý vĩnh cửu này chính là Thiên Chúa.
Như vậy: Thiên Chúa là nguồn hiện hữu và chân lý, và là thực tại vĩnh cửu duy nhất, vì Thiên Chúa là chân lý nên phần nào Thiên Chúa có trong con người chúng ta. Do đó người nào biết nhiều về Thiên Chúa thì cũng hiểu biết sâu xa về bản chất thế giới, bản chất đích thực và số phận đích thực của con người.
* Bình Luận Lý Luận của Augustines
- Augustines tiếp nhận triết học của Plato và các triết gia theo khuynh hướng Plato mới (Plotinus về học thuyết sự lan tỏa) để tạo thành một hệ thống triết học Plato-Kito.
- Biến những kinh nghiệm của bản thân cùng với hệ thống triết học Plato, tìm con đường đi đến Thiên Chúa, nguồn chân lý vĩnh cửu.
- Đóng góp của Thánh Augustines là tìm ra tội tổ tông của con người, và ẩn sủng của Thiên Chúa giúp con người đi đến chân lý vĩnh cửu.
- Tìm ra bản chất của sự dữ, và chứng minh Thiên Chúa có trước và không phải là nguyên nhân của sự dữ.
 (Nguồn trung tâm học vấn Đa Minh)
 
Thần học về con người (sưu tầm)

Thần Học Về Con Người

Nguồn : (catechesis.net)

Tác giả: Phan Anh, OP.
Có hai đường lối khác nhau để trình bày thần học về con người: một đàng là nói về con người trong lịch sử cứu độ (tạo dựng, sa ngã, cứu chuộc), họp thành bộ môn Anthropologia theologica; đàng khác thì đào sâu những yêu sách của phẩm giá con người khi sống trong xã hội, và phát triển thành học thuyết xã hội. Bài này xin trình bày nội dung môn Anthropologia Theologica và phẩm giá con người với nhân quyền.
  1. NỘI DUNG MÔN “THẦN HỌC VỀ CON NGƯỜI”
Chúng tôi xin thú thực là không dễ gì dịch tiếng “Anthropologia theologica”, bởi vì trong Việt ngữ, do ảnh hưởng của các khoa học thực nghiệm, người ta dịch “anthropologia” là “nhân loại học, nhân chủng học”. Tuy nhiên có lẽ những từ đó không thể áp dụng ở đây, bởi vì vấn đề không phải là nghiên cứu về loài người (khác loài khỉ như thế nào?) hay sự thành hình của các chủng tộc; nhưng vấn đề là con người (Anthropos), xét như là một chủ thể tinh thần, khác với các sinh vật và động vật khác vì có trí tuệ và ý chí tự do. Cách riêng “anthropologia theologica” bàn tới con người xét trong tương quan với Thiên Chúa: dưới ánh sáng mạc khải, thần học muốn trình bày về nguồn gốc của con người và ơn gọi của con người. Mạc khải cho ta biết rằng con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa: tuy là một thụ tạo, nhưng con người đã được Thiên Chúa mời gọi vào chia sẻ đời sống thần linh. Tiếc rằng, vì tội lỗi, con người đã làm hư hỏng mối tương giao ấy, gây ra cho chính mình biết bao nhiêu xáo trộn. Thế nhưng, Thiên Chúa không cắt đứt cuộc đối thoại, nhưng đã cứu vớt con người, chữa lành những thương tích mà tội đã gây ra, đồng thời tái tạo hình ảnh của Chúa nơi con người nhờ Đức Kitô. Đại khái, đó là nội dung của môn “anthropologia theologica”, một bộ môn còn chập chững vì mới ra đời.
Xét về phương pháp, thì khi đề ra bộ môn này, các tác giả đã muốn trình bày một cách có hệ thống mạch lạc những vấn đề trước đây đã ra đời vào những giai đoạn khác nhau và dưới những tựa đề khác nhau, đó là De Deo creante về sự tạo dựng. De Deo elevante về ơn thánh sủng. De peccato originali về tội nguyên tổ. Các tác giả chủ trương rằng phải xếp đặt lại các chất liệu của ba phần vừa nói, để tạo ra một bộ môn có tính cách nhất thống và mạch lạc. Môn anthropologia theologica nhằm đáp ứng lại yêu sách đó, với hai lợi điểm sau:
1/. Trong thời đại hôm nay, khi nhân loại đang sống trong khắc khoải vì không tìm ra ý nghĩa của cuộc đời và của giòng lịch sử, thần học cần phải bắt chước công đồng Vatican II, múc lấy từ nguồn mạc khải, để tìm câu trả lời cho câu hỏi: con người là gì?
2/. Làm nổi bật vai trò của Đức Kitô như trung tâm của thần học, của con người cũng như của lịch sử.
Thực vậy, trong các môn nói về sự tạo dựng, ơn thánh và tội nguyên tổ trước đây, ra như thần học chỉ dừng lại ở sách Sáng Thế chứ không chịu đi xa hơn, để tìm chìa khoá giải đáp ý nghĩa của sự tạo dựng, ơn thánh và cứu chuộc nơi Đức Kitô. Đức Kitô mạc khải con người cho con người, nghĩa là Ngài đã giúp con người sống cho ra người, sống xứng đáng với phẩm giá con người hơn. Như thế, Kitô giáo không phải là cái gì áp đặt lên con người hoặc làm nó bị tha hoá; nhưng Kitô giáo đã đáp lại những khát vọng sâu xa nhất trpng con tim con người.
Từ những nguyên tắc ấy, tương ứng với ba phần: Tạo dựng – Tội lỗi – Ơn thánh, các tác giả chia môn Anthropologia Theologica thành ba phần xoay quanh mối tương quan giữa con người với Đức Kitô như sau:
a/. Con người nơi Ađam được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.
b/. Con người nơi Ađam đã sa ngã và mong chờ ơn cứu chuộc.
c/. Con người được cứu chuộc trong Đức Kitô.
  1. Phần thứ nhất – Nói về sự tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa
Hình ảnh Thiên Chúa cần phải được giải thích trong bối cảnh của Cựu ươc lẫn Tân ước(nghĩa là nơi Đức Kitô). Nhờ vậy, vấn đề tạo dựng được nhìn trong chiều kích năng động và không loại trừ tư tưởng tiến hóa, xét vì hình ảnh trọn hảo của Thiên Chúa không phải là cố định bất biến nơi Ađam, nhưng cần được kiện toàn nơi Đức Kitô. Dù sao, ở phần thứ nhất này, con người được nhìn trong kế hoạch tạo dựng: nghĩa là hướng về Thiên Chúa, được ban cho trí tuệ và ý chí tự do; con người không phải chỉ có hồn thiêng nhưng còn có thân xác, con người không sống cô độc lẻ loi nhưng hợp quần trong xã hội, nhờ hành động tự do và nhờ thân xác mà con người hợp tác với tha nhân cũng như tiếp xúc với thế giới vật chất. Con người được Thiên Chúa giao cho việc quản trị vũ trụ: đây là lúc bàn về giá trị của lao động, cũng như những nghĩa vụ đối với môi sinh.
  1. Phần thứ hai nói tới tình trạng sa ngã của con người
Đây là chương tương ứng với những vấn đề về tội nguyên tổ trước đây. Kinh thánh đã nói về tội trong bối cảnh của một mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa, tội là sự phản loạn của con người, bất tuân lệnh Thiên Chúa. Ngoài ra, Kinh thánh không những nói đến những tội cá nhân nhưng còn nói tới một tội bao trùm cả nhân loại, gây ra những xáo trộn trong thế giới, trong các tương quan xã hội và ngay cả chính trong nội tâm con người. Tuy nhiên, các câu hỏi chung quanh bản chất của tội nguyên tổ cần được đọc trong bối cảnh của toàn thể lịch sử mạc khải. Như ta đã biết, thánh Phaolô đã nhìn thấy nơi sự sa đoạ của con người lòng khao khát được cứu rỗi: “ở đâu tội lỗi đầy tràn thì ơn tha thứ lại càng chan chứa”. Tội nguyên tổ của Ađam cần được đối chiếu với ơn thủ lãnh nơi Đức Kitô.
  1. Phần thứ ba bàn đến cuộc sống mới của con người trong Đức Kitô
Phần này tương ứng với những triệt nói về ơn thánh trước đây. Tuy nhiên, vấn đề ơn thánh cần được nhìn trong nhãn giới mới: ơn thánh không phải chỉ là một liều thuốc bổ tăng thêm sức mạnh cho con người. Ơn thánh cần được lồng trong cả kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa trao ban cho con người, kêu mời con người vào chia sẻ đời sống hạnh phúc với mình: tình yêu ấy không chịu thúc thủ vì sự khước từ của con người; nhưng sau khi con người sa ngã. Thiên Chúa lại càng tăng thêm tình thương đối với con người qua việc trao ban Đức Kitô cho con người. Nhờ Đức Kitô và trong Thánh Thần, con người được ơn làm nghĩa tử và chia sẻ sự sống thần linh. Tình yêu của Thiên Chúa đã đến gặp gỡ con người trong điều kiện lịch sử, nghĩa là con người đã sa ngã, bị thương tích. Vì thế con người cần được chữa lành, cần được tha thứ. Trên thực tế, tình yêu ấy đã thanh tẩy con người, ban khả năng cho nó đạt được sự tự do của con cái, vượt thắng tính ích kỷ, ngỏ hầu có thể dùng tự do để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu và ơn thánh đã để lại dấu vết sâu xa trong linh hồn, xét vì nó đã biến linh hồn thành đền thờ của ba Ngôi Thiên Chúa, khai mào cuộc kết hiệp với Chúa mà ngày kia sẽ được sung mãn trên trời. Con người sống trong ơn thánh, hoạ theo gương mẫu của Đức Kitô, sẽ trở nên người hơn, sẽ phát triển các tiềm năng của mình hơn nữa. Tiềm năng nói ở đây không phải là sức lực thể chất hay là trí khôn sắc sảo, nhưng là tiềm năng có thể vượt lên trên chính mình để kết hiệp với Đấng là Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối.
Trên đây là những mục chính của môn “anthropologia theologica”. Dĩ nhiên, mỗi tác giả có thể khai triển và khía cạnh mà họ thích. Thí dụ các nhà tu đức học thì thích khai triển phần thứ ba (đời sống ơn thánh). Những ai muốn đối thoại với các khoa học nhân văn hiện đại thì chú trọng đến phần thứ nhất (thí dụ vấn đề tạo dựng và tiến hoá, vấn đề linh hồn và những dữ kiện của tâm lý học hiện đại). Thần học về thân xác và phái tính thì cũng đang phát triển. Sau cùng có tác giả muốn kéo dài ra thêm một phần thứ tư nữa, bao gồm những vấn đề cánh chung. Theo họ, thần học về con người không thể chỉ dừng lại ở nguồn gốc của con người và tình trạng hiện tại của con người, nhưng còn phải nói tới tương lai, tới định mạng của con người nữa. Chết rồi đi đâu? Tương lai của mỗi người, của nhân loại, của thế giới sẽ như thế nào?
Dù sao, thì như đã nói, môn “anthropologia theologica” còn mới mẻ, vì thế chưa có một hình thù rõ rệt. Tưởng cũng nên biết là Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã bàn tới những vấn đề nói trên đây trong những nơi khác nhau. Ta thấy trong phần giải thích kinh Tin kính, sự tạo dựng con người trong các số 355-379, sau khi đã nói công trình tạo dựng và quan phòng nói chung: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, có xác có hồn, với hai giống nam nữ. Kế đó, các số 385-412 nói sự sa ngã của nguyên tổ, nhưng Thiên Chúa hứa sẽ ban ơn cứu chuộc. Còn phần luân lý, ta lại gặp thấy một chương về phẩm giá con người xét vì là hình ảnh của Thiên Chúa, ở các số 1701-1709, cũng như xét vì ơn gọi đến thông hiệp với Ngài qua các hành vi tự do, số 1716-1742. Ơn thánh thì được bàn tới trong các số 1987-2016. Như thế, ta thấy rằng các vấn đề con người, cách riêng về nhân phẩm, không phải là chân lý trừu tượng, nhưng kèm theo những hệ luận trong phần luân lý: một đàng con người cần phải cư xử cho xứng đáng với thiên chức của mình (tự do trách nhiệm), đàng khác phải tôn trọng phẩm giá của những người khác.
  1. PHẨM GIÁ VÀ QUYỀN LỢI CỦA CON NGƯỜI
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về phẩm giá của con người. Thần học công giáo cho rằng phẩm giá con người hệ tại ở việc nó được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, có khả năng biết và mến Thiên Chúa, và nhất là được kêu gọi vào hưởng hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Tuy nhiên, đó là nói về phẩm giá con người dưới ánh sáng mạc khải. Nhưng liệu có thể dùng ngôn ngữ ấy để đối thoại với các tôn giáo khác, với các chủ nghĩa triết học và chính trị vô thần hay không? Dĩ nhiên đối với những người không nhìn nhận Thiên Chúa thì nói rằng “phẩm giá con người cao quý vì là hình ảnh Thiên Chúa, được gọi vào chia sẻ hạnh phúc với Chúa” là điều vô nghĩa. Nhưng không phải vì thế mà không thể nói tới phẩm giá con người khi không đưa vào mạc khải Kitô giáo. Như công đồng Vaticano II ghi nhận, thời đại của chúng ta rất nhạy cảm tới vấn đề bảo vệ nhân phẩm, đặc biệt qua việc tranh đấu bảo vệ nhân quyền. Giáo hội thấy rằng đây là con đường phải dùng để đối thoại với thế giới hiện đại: con đường của nhân quyền; việc tranh đấu cho nhân quyền là một khí cụ để bảo vệ nhân phẩm, vì nhân quyền biểu lộ những đòi hỏi chính đáng của con người muốn sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Trong Tuyên ngôn về “Tự Do Tín Ngưỡng”, số 2, Công đồng Vaticano II mô tả phẩm giá con người hệ tại chỗ nó có lý trí và ý chí tự do, có trách nhiệm bản thân. Nói cách khác, con người có khả năng điều khiển hành vi của mình theo sự hiểu biết, thâm tín của mình, chứ không thể bị lôi kéo bằng xiềng xích hay vũ lực. Hiến chế về Giáo hội trong thế giới hiện đại (Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”, số 14-17) đã khai triển những ưu phẩm đó.
III. NHÂN QUYỀN
Cần phải ghi nhận rằng trải qua lịch sử chính trị tại Âu châu, đã có sự tiến triển trong ý thức về khái niệm và nội dung của “nhân quyền”.
  1. Về danh xưng
Trong nhiều bản tuyên ngôn trước đây, nó được gọi là “tự do căn bản” (droits fondamentaux), “quyền lợi của công dân” (droits du citoyen), “quyền lợi tự nhiên” (hay thiên nhiên: droits naturel). Với bản tuyên ngôn của Liên hiệp quốc năm 1948, tiếng “nhân quyền” trở thành phổ thông: nhân quyền là quyền lợi của con người, phát xuất từ bản tính con người, và là những yêu sách để sống xứng với con người. Thực vậy, nhân quyền nhằm giúp cho con người phát triển những đức tính, tài năng của mình, bảo vệ lương tâm và những đòi hỏi tinh thần và thể chất của mình. Những quyền lợi ấy phát sinh từ bản tính con người, chứ không phải là do luật pháp ban cấp, hay là đặc ân của nhà nước dành riêng cho một giai cấp ưu tuyển.
  1. Về thực tế
Tuy nhân quyền phát xuất từ bản tính con người chứ không phải do xã hội ban cấp, nhưng trên thực tế, vấn đề nhân quyền được đặt ra bởi vì con người sống trong xã hội. Thực vậy, một con người sống một thân một mình trên cung trăng sẽ không cần đòi hỏi hay tranh đấu cho nhân quyền làm gì hết. Sự tiến triển về ý thức và sự tranh đấu cho nhân quyền đã diễn ra trong lịch sử cận đại sau những cuộc xung đột giữa các công dân với các thể chế độc tài. Các công dân ý thức rằng mình cần được đối xử như là con người, chứ không thể bị đồng hoá như con vật hay như cái máy, như dụng cụ sản xuất. Tuy nhiên, cần phải chờ đợi thời gian để ý thức đó được chín muồi và được diễn tả thành từ ngữ (nhân quyền), cũng như được phát biểu thành bản tuyên ngôn đầy đủ về các quyền lợi căn bản, bất khả nhượng của con người.
Thực ra, những bản tuyên ngôn đầu tiên về những tự do căn bản xem ra mang tính chất không tưởng. Theo một số triết gia Pháp của thế kỷ 18, con người sinh ra vốn được tự do tuyệt đối. Vì nhu cầu sống còn, nên con người thấy cần quy tụ thành xã hội; tuy vậy, trong khế ước hợp xã, con người đã dành lại một số quyền tự do bất khả nhượng; hậu nhiên xã hội không được phép đụng tới các tự do ấy. Ngày nay, thuyết đó không những mang tính cách giả tạo (có bao giờ con người sống hoàn toàn ngoài xã hội đâu?), nhưng còn bị tố cáo là đã đưa tới chế độ tư sản bất công: người ta tranh đấu cho quyền tự do chiếm hữu, tự do sản xuất nhằm ngăn chận sự can thiệp của xã hội; nhưng trên thực tế chỉ có một thiểu số nắm được những quyền đó, còn đại đa số nhân dân chỉ có quyền tự do chết đói .- Đối lại, các chủ nghĩa xã hội chủ trương rằng quyền lợi của cá nhân phải hy sinh cho quyền lợi của tập thể. Tập thể sẽ lo liệu để cho hết các công dân được hưởng đồng đều những nhu cầu kinh tế căn bản: cơm bánh, nhà cửa, việc làm, y tế.
Thoạt tiên, xem ra hai qua điểm về nhân quyền như vậy hoàn toàn đối nghịch nhau: quan niệm của khối tư bản đề cao các quyền tự do cá nhân, nhưng bỏ qua các quyền kinh tế xã hội; còn khối xã hội thì muốn bảo vệ các quyền kinh tế xã hội nhưng phớt lờ các quyền tự do cá nhân. Trên thực tế, hai quan điểm ấy cần được bổ túc cho nhau. Thực vậy, không có tự do hay quyền lợi nào mang tính cách tuyệt đối cả: quyền lợi cần được đi đôi với nghĩa vụ; những quyền lợi cá nhân được đi kèm theo những quyền lợi kinh tế xã hội. Chúng ta có thể nhận thấy trong bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc (1948) sự phối hợp của hai chuỗi quyền lợi đó:
a/. Những quyền tự do cá nhân: sinh sống; an ninh bản thân; không bị làm tôi mọi; không bị hành hạ tra tấn; không bị giam cầm hay trừng phạt trái phép; tự do bảo vệ đời tư, tự do cư trú và đi lại; quyền có quốc tịch, quyền lập gia đình; quyền có tư sản; tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo; tự do phát biểu ý kiến; tự do hội họp và lập hội; quyền tham dự chính quyền.
b./ Những quyền kinh tế xã hội và văn hóa: bảo hiểm xã hội, có công ăn việc làm, được trả lương tương xứng với công việc; lập nghiệp đoàn; nghỉ ngơi và giải trí; mức sống tương xứng (sức khỏe, nhà ở), bảo hiểm khi thất nghiệp già yếu bệnh tật; giáo dục, tham gia vào đời sống văn hoá.
Hai loại quyền lợi vừa nói có liên hệ mật thiết với nhau, chứ không thể tách rời nhau, hay loại trừ lẫn nhau. Trong những thập niên gần đây, học thuyết về nhân quyền tiến thêm một bước nữa. Tuy rằng, chủ thể của nhân quyền lúc nào cũng là con người trong xã hội; nhưng không nên hiểu con người như là những chủ thể đơn độc; bản tính hợp quần của con người đòi hỏi phải nhìn nhận cả những tổ hợp như là chủ thể quyền lợi nữa. Do đó mà người a nói tới quyền của gia đình, quyền của các sắc tộc, của các dân tộc (thí dụ quyền được phát triển kinh tế, quyền bảo vệ văn hoá cổ truyền, quyền được hưởng hoà bình).
Giáo hội Công giáo không những đã chăm chú theo dõi sự tiến triển của học thuyết về nhân quyền, nhưng còn tham gia vào việc tranh đấu cho nhân quyền nữa. Chúng tôi xin ghi nhận vài văn kiện chính: Sứ điệp gửi Tổng thư ký Liên hệp quốc nhân dip kỷ niệm 30 năm Tuyên ngôn Nhân quyền (2-12-1978: AAS, 71, 1979, 121-125); Diễn văn của Đức Gioan Phaolo II đọc tại trụ sở Liên hiệp quốc ngày 2-10-1979; Diễn văn đọc tại trụ sở UNESCO (Paris, 2-6-1980); đó là chưa kể đến những diễn văn đọc trong những cơ hội khác, đặc biệt là khi tiếp xúc với Ngoại Giao Đoàn cạnh Toà Thánh. (Cũng nên biết là Toà Thánh luôn gửi Quan sát viên tham dự các Uỷ ban về nhân quyền của Liên hiệp quốc). Ngoài ra, Uỷ ban Thần học Quốc tế cùng với Hội đồng Toà Thánh đặc trách Công lý Hoà bình đã xuất bản một văn kiện về phẩm giá và quyền lợi con người (6-10-1984).
 Nói chung, chúng ta nhận thấy Toà Thánh đã ủng hộ bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hiệp quốc, và cố gắng kiện toàn với những đóng góp sau đây:
a/. Giáo hội muốn đặt một nền tảng triết học và thần học cho nhân quyền: chúng dựa trên phẩm giá con người. Hơn thế nữa, phẩm giá con người cao quý không những vì những tài năng tinh thần (lý trí suy nghĩ và ý chí tự do), nhưng còn vì định mạng siêu việt. Hạnh phúc con người vượt lên trên biên cương xã hội, vì con người được kêu gọi vào kết hợp với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Giáo hội tranh đấu cho quyền tự do lương tâm và tự do tín ngưỡng. Ở đâu mà quyền này không được nhìn nhận, thì phẩm giá con người bị vi phạm trầm trọng, xét vì như vậy thì con người đã bị chặt mất chiều hướng siêu việt: nó chỉ còn là một sinh vật như cây cỏ, sống ngày nào hay ngày đó, chứ không còn vươn lên trên thế giới hữu hình. Tuy nhiên, nên biết rằng trong hệ cấp các giá trị, Giáo hội đặt quyền lợi căn bản nhất của con người là quyền được sống; do đó mà Giáo hội kêu gọi bảo vệ mạng sống con người từ khi thụ thai cho đến khi lìa đời (chống lại sự phá thai lẫn sự chết êm dịu).
b./ Sự thi hành quyền lợi kèm theo bổn phận. Nếu con người đòi hỏi nhân quyền vì là chúng gắn liền với phẩm giá con người, thì con người cũng phải hành xử những quyền lợi đó phù hợp với phẩm giá của mình, nghĩa là có trách nhiệm. Việc hành xử nhân quyền cần được lồng trong bối cảnh luân lý.
c./ Một cách tương tự, nếu chủ thể quyền lợi không những là những cá nhân mà còn là những đoàn thể, thì không những là các cá nhân mà cả các đoàn thể cũng phải ý thức rằng về những nghĩa vụ tương ứng, thí dụ nghĩa vụ của những nước giàu đối với những nước nghèo; nghĩa vụ của thế hệ này đối với thế hệ kế tiếp (thí dụ trong vấn đề bảo vệ môi sinh, san sẻ các tài nguyên nhiên liệu).
———–
Chú thích thêm:
Phải hiểu thế nào về “hình ảnh Thiên Chúa” nơi con người? Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, bởi vì:
– Có khả năng nhận biết Thiên Chúa (số 36); được gọi nhận biết và mến yêu Thiên Chúa (31; 356; 2002); được mời gọi vào mối tương giao với Thiên Chúa (299; 2563; 2566).
– Mang theo những sự toàn hảo của Thiên Chúa 941; 1978); có khả năng ý thức về chính mình làm chủ mình (357; 1934); có khả năng thương yêu (1604; 2331); được thông dự vào tác động tạo dựng nhờ lao động (2427; 2501); cai quản vũ trụ (373); vì thế cần phải cư xử giống như Thiên Chúa (2784). Cũng nên biết là con người được gọi là hình ảnh của Thiên Chúa không phải chỉ nhờ có tinh thần (hay linh hồn, 363), nhưng thân xác cũng được tham dự vào đặc tính hình ảnh nữa (362, 364).
Tưởng cũng cần thêm rằng con người không phải chỉ là hình ảnh Thiên Chúa trong lãnh vực tự nhiên. Sách Giáo lý cũng còn nói tới hình ảnh Thiên Chúa trên bình diện siêu nhiên nữa; hình ảnh của sự thông hiệp giữa Ba Ngôi Thiên Chúa (2205; 2713). Mẫu gương của hình ảnh Thiên Chúa là chính Đức Kitô (299), và do đó Đức Kitô trở thành khuôn mẫu cho con người hoạ theo (381; 518; 705; 1109; 1701; 1877).
Dù thế nào đi nữa, vì là hình ảnh Thiên Chúa nên con người cần được tôn trọng, đây là phẩm giá cần được nhìn nhận cho hết mọi người (225, 1783), dù là nam hay nữ (369; 2335).
Hành trang theo Chúa trong ơn gọi tu Dòng

HÀNH TRANG  THEO CHÚA TRONG ƠN GỌI TU DÒNG

 Anthony Padua Dương Văn Hạnh
     Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, ai ai cũng có ước mơ, lí tưởng riêng cho mình. Có những con đường để bạn bước đi; có những lối rẽ cuộc đời bạn mà khi bước qua nó, bạn phải đánh đổi bằng cả mồ hôi, nước mắt, và cả máu nữa. Quyết tâm dẫn thân trong đời sông tu trì, theo Đức Ki tô ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân cũng là ơn gọi đặc biệt và quý giá biết bao khi những ai chọn, bước đi trong bậc sống này.
Đi tu là từ bỏ tất cả, là để lại sau lưng cái tôi cá nhân của mình, là gieo vào tâm hồn tình yêu thương tha nhân, yêu thương đồng loại, và lòng quảng đại để phục vụ người khác. Hành trình đó  không phải ngày một ngày đôi, mà là suốt cả cuộc đời. Bạn và tôi phải đổi thay từng ngày, phải chiến đấu từng giờ từng phút, phải hoàn thiện bản thân để nên giống Đức Ki tô. Sống vì một tình yêu lý tưởng, đó là sẵn sàng cho đi, cho đi mà không đòi lại như Chúa đã từng yêu vậy. “Không có tình yêu nào cáo quý cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu”.
Đi tu theo Chúa (dù là tu Triều hay tu Dòng) không phải là bước đi trên đường được trải thảm, được rải đầy hoa thơm. Nhưng là bước đi trên đường gồ ghề, đường chông gai, thử thách và gian khổ.
Hành trang đi tu cũng không phải chỉ lo trau dồi kiến thức , chỉ lo chu toàn bổn phận hằng ngày. Ông Bryan Di-on, Tống giám đốc tập đoàn Coca-Cola, trong một buổi diễn thuyết vào đầu năm học  đã nói với sinh viên về mối tương quan giữa nghề nghiệp và tương quan khác với của con người: “Cuộc đời như một trò chơi tung hứng. Trong tay bạn có 5 quả bóng lớn mang tên: Công việc, gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần. Công việc là một quả bóng cao su, khi bạn làm rơi xuống đất, nó sẽ nẩy lên lại. Nhưng còn 4 quả bóng kia là những quản bóng thủy tinh. Nếu bạn lỡ tay đánh rơi, chúng sẽ bị trầy xước, có tì vết, bị nứt, bị hư hỏng, hoặc thậm chí bị vỡ  mà không thể sửa chữa được. Chúng không bao giờ trở lại như cũ. Bạn hãy hiểu điều đó để cố gắng phấn đấu giữ sự quân bình của bạn”. Quả thật, khi liên hệ nó vào trong đời sống tu trì, tôi lại cảm nhận được tầm quan trọng của nó, đặc biệt là “sức khỏe, bạn bè và tinh thần”.
Đi tu là để phục vụ người khác chứ không phải để người khác phục vụ mình. Nhưng để phục vụ người khác, trước hết bản thân mình cần có tinh thần thoái mái, có sức khỏe dồi dào. Bạn có  nghĩ vậy không? Ví dụ, một người anh em của mình lo học hành để thi vào Học viện Đa Minh, ngày đêm miệt mài đèn sách, ít ngủ, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, trầm tư, rồi sinh ra bệnh tật. Vậy, liệu hành trình đó sẽ bước tiếp hay dừng lại khi một ngày không xa ngã bệnh???
Đời sống cộng đoàn trong Dòng tu là đời sống anh em, huynh đệ; bạn bè khắp nơi về cùng sống với nhau dưới một mái nhà, cần gắn kết yêu thương nhau, chia sẻ và tha thứ cho nhau từ trong việc nhỏ với một tinh thần thoái mái, tất cả vì Đức Ki-tô, như vậy “quả bóng thủy tinh” ấy sẽ không đến mức bị vỡ, bị rạn nứt, nhưng luôn gắn chặt làm một , và quả bóng ấy sẽ sinh ích cho nhiều người.
Tôi rất lấy làm vui mừng và hạnh phúc vì đang được sống trong ngôi nhà thân thương của đại gia đình SVD. Cùng với tất cả anh em cùng trang lứa hay là những bậc đàn anh, những su huynh từ khắp mọi miền tổ quốc-những người cùng chung chí hướng, cùng một lý tưởng: là được ra đi làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Mỗi ngày sống là mỗi ngày được kết hợp với Chúa bằng lời kinh, tiếng hát, Thánh Thể…Từng giờ phút rảnh rối là những lúc nhìn lại chính mình, được đào tạo nhân bản, sinh hoạt giờ giấc, rèn luyện thể thao nâng cao sức khỏe qua những giờ thể thao (…).
Nguyện ánh sáng Thiên Chúa  sẽ luôn chiếu tỏa và nâng đỡ các bạn và tôi trên con đường Đức tin này.
Ant. P Dương Văn Hạnh
Thinh lặng hay lên tiếng

THINH LẶNG hay LÊN TIẾNG


Anthony Padua Dương Văn Hạnh

Chúng ta đang sống giữa một xã hội của nền văn minh, khoa học kỹ thuật-công nghệ phát triển; cùng với đó thì tục hóa đang đi sâu, len lỏi vào từng người, từng môi trường sống, từng giai cấp khác nhau. Từ thành thị đến nông thôn, từ học đường về gia đình, từ xã hội vào đời tu, từ giàu đến nghèo… Dường như chủ nghĩa cá nhân, tự do và hưởng thụ đang được đề cao; và đồng thời đồng tiền “đi liền khúc ruột”, mở mắt ra là thấy tiền, bất cứ cái gì cũng có thể quy thành tiền. Chính vì thế lời nói không còn trọng lượng nếu không có “dola” đi cùng. Trong một viễn cảnh như vậy, chúng ta nên lên tiếng hay im lặng?
Thiết nghĩ, con người đều có quyền tự do ngôn luận, chúng ta có thể nói lên chính kiến của mình khi thấy hay đối diện với những điều không hay, không phù hợp.
Xét về mặt xã hội, ngày nay mọi tệ nạn đang lan tràn khắp nơi, nó đang đi sâu vào mọi giai cấp, mọi thế hệ. Nào là: cờ bạc, rượu chè, ma túy, buôn bán người (nhất là phụ nữ và trẻ em), mại dâm..vv.. Bạn có thể làm thinh hay lên tiếng? Giữa một chế độ mà sự ngược đãi, bạo hành trẻ em như báo chí từng đưa tin; hay một xã hội mà công lý hòa bình đang bị bóp nghẹt nhiều, thậm chí hàng loạt vụ án dân oan diễn ra mà theo báo cáo hằng năm lên Quốc hội của Bộ Công an thì “không có oan sai, nghiêm minh, đúng luật”… Hay những vụ đất đai tôn giáo bị chiếm đoạt cho những dự án kinh tế, khách sạn…như Tam Tòa (Quảng Bình), Thái Hà (Hà Nội), Con Kuông (Nghệ An)… Trước một xã hội như thế, nếu bạn hay tôi lên tiếng bảo vệ, kêu oan hay làm chứng thì có thể bị bách hại, bị đánh đập, bắt giam và thậm chí có thể mất mạng. Dường như chỉ còn giải pháp nín lặng, làm thinh cho “trong ấm ngoài êm”,cho “an toàn là bạn” thì tốt nhất. Tôi thiết nghĩ, nếu tôi im lặng thì tôi như đang dửng dưng và vô cảm trước não trạng, thực tại ấy của xã hội.
Xét về mặt tôn giáo nói chung, và niềm tin Kitô giáo nói riêng thì ta nói hay làm thinh, điều đó chỉ để làm đẹp lòng Chúa, vì tình yêu Chúa và vì vinh quang của Người. Tất cả mọi sinh hoạt của người Tu sĩ hay Giáo dân đều quy hướng về Thiên Chúa. Nếu không được như thế, thì luôn luôn có nguy cơ lạc lối và quy hướng về tội lỗi nhất là khi có liên quan đến lời nói. Hầu như mọi người không đặt thành vấn đề như thế. Họ nói hay làm thinh tùy thích. Dường như bây giờ họ mở miệng ra là “để chẳng nói gì hết, để khoe khoang, để nịnh hót hoặc quyến rũ, để phê bình, nói xấu và gièm pha… cả ngàn kiểu cách xấu xa mà ta không dám nhìn thẳng”. Người ta thường nói: “Lòng đầy thì miệng mới nói ra”. Tôi tự nhủ rằng: khi tôi nói hoặc tôi làm thinh, có phải thật sự vì Chúa không? Hay đúng hơn là vì khoe khoang, kiêu ngạo hay cả nể? Có lẽ rằng, tôi cần phải tự đối mặt với Chúa trước dung nhan Ngài mỗi ngày; và luôn phải ý thức rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện nơi bạn và tôi. Chính Người là Đấng sẽ soi sáng, hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta cần nói khi nào và nói như thế nào.
Sự thinh lặng mang lại hoa trái gì cho ta? Làm thinh, nín lặng không phải là câm như hến mà là biết làm thinh và biết nói đúng lúc. Đó là điều kiện duy nhất để có được sự bình an đích thực và ta có thể chia sẻ sự an bình đó cho nhiều người khác. Trái lại, những người lắm lời thường gây khó chịu cho người khác, là nguyên nhân của rắc rối và chia rẽ. Con người ít nói thì cho dù ở đâu đi nữa cũng luôn gieo sự an bình chung quanh mình. Dù cho ta sống trong tu viện hay giữa thế gian thị sự thinh lặng thật đáng quý biết bao! Thinh lặng giúp tôi dễ dàng nghe tiếng Chúa thôi thúc trong lòng nhiều hơn, qua đó tôi có thể tạo cho mình được đời sống nội tâm sâu sắc, tránh những xô bồ của thế gian và kết hợp sâu hơn, gần gũi, thân mật với Chúa hơn.
Thiết tưởng “thinh lặng đích thực” là thinh lặng từ trong nội tâm của lòng mình. Còn sự thinh lặng nơi miệng lưỡi thì chẳng có ích lợi gì; nó chỉ mang tính giả tạo, phi lý nếu trong lòng cứ lải nhải và không ngừng nói xấu tha nhân.
“Lên tiếng” thì sao? Một khi ta nói thì phải nói những lời hay, đẹp, lời bác ái, vị tha, yêu mến, mang lại hữu ích cho người khác…Lời nói khi thốt lên mà tránh được những ích kỉ, nói xấu, gièm pha, lộng ngôn…thì đích thực đó là một sự thinh lặng đích thực, là lúc ta “lên tiếng” chứ không còn “thinh lặng” nữa. Còn một khi ta lên tiếng để mỉa mai, chỉ trích, đổi trắng thay đen, mưu cầu lợi ích cá nhân hay là để gièm pha thì quả thật, sự thinh lặng bên ngoài bây giờ thật cần thiết. Vì như thế thì thà đừng nói thì hơn, để cho sự thinh lặng đích thực như đã nói ở trên được thăng hoa.
Như vậy, thinh lặng hay lên tiếng dường như trở thành một phạm trù triết học. Nó mang tính tương đối chứ không tuyệt đối nữa. Nên nói lúc nào và khi nào cũng chỉ là tương đối. Lúc thinh lặng là lúc ta lên tiếng; có lúc lên tiếng là lúc ta đang thinh lặng thật sự. Vì nói lời hay, tốt đẹp là lúc ta đang thinh lặng tuyệt vời; không nói gì mà câm như hến chưa chắc đã thinh lặng thật sự mà chỉ mang tính giả tạo nếu trong lòng luôn nói xấu tha nhân. Thinh lặng tuyệt đối thì không hẳn là không nói. Lúc nói xấu, gièm pha thì sự thinh lặng bên ngoài lại cần thiết biết bao. Nói tóm lại, thinh lặng hay lên tiếng dường như cần phải được phân biệt rõ ràng và cần được đi sâu vào tiềm thức của bạn và tôi; đặt mình trước hoàn cảnh, nâng cao đời sống nội tâm, đồng thời để Chúa Thánh Thần hoạt động giúp ta biết nói lúc nào và như thế nào. Cần phải hiểu  “thinh lặng” chứ không phải là “nín lặng”.
Mặt khác, lên tiếng không đồng nghĩa là chỉ bằng lời nói nhưng có lúc ta làm thinh lại là lúc ta lên tiếng bằng những hành động cụ thể. Hành động đó sẽ diễn tả ra bên ngoài là một sự đồng tình, hưởng ứng hay là phản bác. Thí dụ: Người cha sai con đi ra đồng làm việc, người con chẳng nói gì mà tự đi tìm cuốc, xẻng để đi làm; hành động đó cho thấy sự đồng ý, vâng lời của người con. Còn ngược lại, nếu người con ấy bỏ đi chơi với bạn bè, chơi game, đá banh…thì hành động đó nói lên sự bất mãn, không đồng tình theo ý của người cha đã truyền. Như vậy, nhiều lúc chúng ta “lên tiếng” cũng không nhiết thiết dùng “lời” nhưng là dùng “hành động” diễn tả.
Tóm lại, thinh lặng hay lên tiếng nằm ở ý thức và quyết định của mỗi người. Chúng ta cần phân biệt và xét xem nên lên tiếng lúc nào và như thế nào hoặc lúc nào nên làm thinh. Lúc ta “lên tiếng” cũng chính là lúc ta “thinh lặng” tuyệt đối nếu lời ta đưa đến việc hữu ích và mưu cầu hạnh phúc, hòa bình cho người khác cũng như cho chính mình. Lúc thinh lặng cũng chính là lúc ta lên tiếng. Và không chỉ có lên tiếng bằng lời nói nhưng còn dùng chính hành động không cần “lời”  để lên tiếng thể hiện ý kiến của mình.
Trong đời tu, sự thinh lặng bên ngoài cũng như sự thinh lặng nội tâm là điều thiết yếu và quan trọng. Qua đó người Tu sĩ dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa, sẵn sàng đón nhận mọi nghịch cảnh và thử thách xảy đến cho người đó trong cuộc đời. Bạn hãy để Chúa Thánh Thần hoạt động, hướng dẫn bạn trong mọi hoàn cảnh và hãy học thinh lặng-lên tiếng đúng lúc, đúng nơi trong đời sống chúng ta dưới sự tác động của Thần Khí Chúa.
( DaLat, May 2015)


XIN HÃY SAI CON